TẠI SAO CHÚNG TA
PHẢI THAM KHẢO PHẦN NÀY
- YHCT VIỆT NAM NÓI RIÊNG
- Y HỌC ĐÔNG PHƯƠNG NÓI CHUNG .
Đều dựa trên nền tảng của
ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH - BÁT QUÁI
Để phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề
NHÂN SINH QUAN - VŨ TRỤ QUAN .
Vì Triết lý đông phương là nền tảng để xây dựng
Học Thuyết Âm - Dương - Ngũ Hành - Bát Cương - Bát pháp ...
Là cơ sở để :
Biện chứng - Luận trị cho thực tế khám và chữa bệnh của Ngành Đông y nói chung và YHCT Việt Nam nói riêng .
Tìm ra những nguyên lý rất cơ bản để phục vụ cho công việc khám chữa bệnh đạt kết quả tốt hơn .
Bằng chứng là đã tồn tại hàng ngàn năm.....
THÁI CỰC SINH LƯỠNG NGHI
LƯỠNG NGHI SINH TỨ TƯỢNG
TỨ TƯỢNG SINH BÁT QUÁI
TRÙNG QUÁI SINH MUÔN VẬT
Từ Không Thành Có
Từ có sinh âm dương
Âm dương sinh bốn hướng
Bốn hướng sinh tám phương
Tám phương sinh tất cả
VÔ CỰC - VÔ VI - KHÔNG GIỚI HẠN
Hư Vô . Hư Không . Chân không . Không có giới hạn . Mờ mờ Ảo ảo . Không thể hiểu hết .
Thái Cực - Hữu vi
THÁI CỰC TIÊN THIÊN
Thái cực động sinh Dương .
Thái cực tĩnh sinh Âm .
Âm - Dương tương đồng .
Âm - Dương đồng nhất lý . Như nhau . Bằng nhau
Lưỡng nghi
Hai Cực Âm - Dương .
Âm - Dương sinh Tứ tượng
Âm - Dương tương đồng có nghĩa là bằng nhau về thể trọng . Khác nhau về trạng thái . Cùng tồn tại song song.
Tứ Tượng
Tứ : 4
Tượng : Trạng thái biểu hiện
1 - Thái Dương . Mặt Trời
2 - Thiếu Dương . Mây
3 - Thái Âm . Mặt Trăng
4 - Thiếu Âm . Sao
Tứ tượng sinh Bát quái .
Bát : Tám
Quái : chỉ sự biến hóa của Âm Dương
BÁT QUÁI
Càn | 乾 qián Trời | 天 Tây bắc |
Khảm | 坎 kǎn Nước | 水 Bắc
|
Cấn | 艮 gèn Núi | 山 Đông bắc
|
Chấn | 震 zhèn Sấm | 雷 Đông |
Tốn | 巽 xùn Gió | 風 Đông nam
|
Ly | lí Hỏa (lửa) | 火 Nam
|
Khôn | 坤 kūn Đất | 地 Tây nam
|
Đoài | 兌 duì | 澤 Tây Đầm (hồ) |
Trùng quái sinh muôn vật
" Bát quái chồng lên bát quái "
- Bát quái chồng lên nhau sinh hóa ra muôn vật và từ đây người ta gọi chung là Càn Trời
Khôn Đất
Để chỉ tất cả mọi thứ ..
TỪ THUỞ HỒNG HOANG
" không biết từ khi nào "
Trong sâu thẳm của vũ trụ khi THÁI CỰC hình thành liền có sự biến hóa phi thường do những mâu thuẫn nội tại của Tự thân
- THÁI CỰC ĐỘNG SINH DƯƠNG
- THÁI CỰC TĨNH SINH ÂM
- ÂM - DƯƠNG tương hỗ sinh ra một năng lượng khổng lồ bị dồn nén dẫn đến một sự bùng nổ vĩ đại . Ánh sáng chói lòa . Âm dương đuổi nhau tạo thành những vòng xoáy vô tận . Các hành tinh hình thành do bụi vũ trụ tích tụ lại sau vụ nổ .
Theo vòng xoáy âm dương từ phải qua trái . Tại sao lại từ phải qua trái . ?
- Dương nhẹ nổi lên trên . Âm nặng chìm xuống. Nhưng do nguyên lý cân bằng nên Âm phải vượt lên cho bằng dương , do đó dương bị đẩy qua trái
- Ban đầu các hành tinh rất nhỏ và gần như ở dạng Khí + Bụi nên lực tương tác còn yếu vì thế sự va đập vào nhau hỗn loạn rất khủng khiếp ... Trong quá trình hình thành các Hành Tinh " Hành chuyển động - Tinh có ánh sáng "
ÂM DƯƠNG SINH NGŨ HÀNH
NGŨ HÀNH TIÊN THIÊN
Ngũ hành là một phạm trù để khái quát về sự vận động và biến hóa của năm đại lực trong vũ trụ do Âm Dương tạo ra .
Độc lập .
- Hỗ trợ nhau để biến hóa - Tương sinh
- Kiềm chế nhau để cùng tồn tại - Tương khắc
Trong không gian bao la khi một HÀNH giãn nỡ hết mức sẽ trở nên Vô hình . Khi co lại cùng cực sẽ trở thành Hữu vi .
Ví dụ trong vũ trụ ...
Hành Hỏa trong không gian là Sức nóng do sự phản chiếu ánh sáng của mặt trời . Bức xạ nhiệt của các Tinh tú mà tạo thành
Hành Thổ là những đám mây bụi tích điện khổng lồ có thể trải dài nhiều năm ánh sáng .
Hành Kim là các vật chất cứng rắn do sự Khí - Hóa của Thủy Hỏa trong vũ trụ tạo thành
Hành Thủy là khí hàn băng . Khi co lại hết mức sẽ thành tinh thể BĂNG .
Theo quy luật của Vũ Trụ :
- Nếu một vật đứng yên thì sẽ đứng yên mãi mãi
- Nếu một vật chuyển động sẽ chuyển động không ngừng ( vì không trọng lượng ) Khi những tinh thể băng bị va chạm với Thiên thạch . Nó văng vào không gian và chuyển động không ngừng . Khi bay gần các Hành Tinh thì bị sức hút của các hành tinh mà tạo thành quỹ đạo ... Càng gần Thái Dương thì càng bị tan chảy , hóa hơi và mất dần trong không gian .
Hành Mộc là những xoáy vũ trụ và các trận giải phóng điện từ do sự tự sụp đổ của các đám bụi mây vũ trụ tạo ra
THÁI CỰC VI NHẤT ĐIỂM
THÁI CỰC LÀ MỘT ĐIỂM DUY NHẤT
Khi ĐỘNG sinh ra Dương
Khi TĨNH sinh ra Âm
THÁI CỰC
Ban đầu là một thể thống nhất chưa phân âm dương nhưng do bản chất là Tĩnh nên mờ mịt , giá lạnh . Thuộc âm . Khi Thái cực hội tụ đủ các yếu tố thì Động . Lúc này mới sinh Dương . Có nghĩa là sau vụ nổ chấn động không gian thì mới sinh ra Tứ tượng .
- Một hành tinh trong quá trình vận động đã vượt lên khống chế các tiểu hành tinh bằng năng lượng và Nhiệt lượng của mình đó là :
THÁI DƯƠNG “ Ánh sáng rộng lớn ” .
Nhờ sức nóng của Thái dương làm cho Hàn khí hóa hơi bốc lên thành mây .
Gọi là :
THIẾU DƯƠNG .
Lưu ý Đây là mây vũ trụ , những đám mây khổng lồ phản chiếu ánh sáng của thái dương nên cũng tạo ra hơi nóng . Nhưng nhiệt lượng thấp hơn .*
QUẢ ĐỊA CẦU
Hành tinh của chúng ta cũng sinh ra trong hoàn cảnh tương tự nhưng do không hội đủ các yếu tố về năng lượng và nhiệt lượng nên bị chi phối bởi Mặt trời và các hành tinh lớn hơn cùng sự tác động của các tiểu hành tinh ...
- Vòng xoáy vũ trụ và sự vận hành của Âm - Dương đã tạo nên những tổ hợp hành tinh bay trong không gian theo những chu kỳ khác nhau .
- Ngắn - Dài - Rộng - Hẹp khác nhau gọi là HỆ .
Tất cả đều tiến về phía trước theo chiều từ phải qua trái .
Thí dụ như Thái dương hệ
Ngắn là tự quay xung quanh nó .Tạo ra Sáng và Tối .
Dài là quay xung quanh Mặt trời . Tạo ra khí hậu bốn mùa .
Rộng tạo ra không gian . Hẹp tạo ra thời gian
NHƯ VẬY THỨ TỰ HÌNH THÀNH
CỦA NGŨ HÀNH TIÊN THIÊN
NĂM SỰ VẬN ĐỘNG CÓ TRƯỚC
1/HÀNH THỦY - Hàn khí - Đen tối - Mờ ảo - Lạnh giá
2/HÀNH HỎA . Hơi nóng - Ánh sáng - Rõ ràng - Ấm áp
3/HÀNH THỔ . Bụi vũ trụ
4/HÀNH MỘC . Gió mặt trời - Xoáy vũ trụ " Bão Từ "
5/HÀNH KIM . Chất rắn tự do bởi sự khí hóa của
Thủy - Hỏa Tạo thành .
Theo thứ tự trên cho ta thấy là Ngũ hành Tiên thiên hoàn toàn độc lập không có hành nào sinh ra hành nào . Nhưng tương tác với nhau do lưỡng nghi ....
- Địa cầu cũng như các Hành tinh khác vận hành theo qui luật Âm Dương nên quay từ phải qua trái . Từ Tây qua Đông đã tạo ra lực ly tâm và đẩy các vật chất nhẹ trôi ra phía ngoài tạo thành lớp phủ . Lực ly tâm vòng tròn lại tạo ra lực hướng tâm hút tất cả các vật thể vào trung tâm của nó . Gọi là lực hấp dẫn
- Do hấp thụ được năng lượng từ gió mặt trời và sức nóng của Thái dương đã tạo ra một nhiệt lượng rất lớn tích tụ trong tâm địa cầu , làm nóng chảy các vật chất cơ bản ( Thiên thạch ) thành dạng lỏng . Phân tầng theo thứ tự của lực hấp dẫn . Nhẹ nổi lên trôi trên bề mặt hay còn gọi là văng ra ngoài cùng theo lực ly tâm và nguội dần gọi là Đất . Lớp tiếp giáp đông đặc và rất cứng gọi là vỏ trái đất . Hay thạch quyển ..Mỗi khi năng lượng trong lòng địa cầu tăng quá cao ...Thì ở đâu đó sẽ xảy ra sự giải phóng năng lượng rất hùng vĩ ...
" ĐÂY LÀ SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA TỨ TƯỢNG . KHÔNG PHẢI LÀ NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TẠO VẬT LÝ VÀ HÓA HỌC CỦA ĐỊA CẦU DO ĐÓ CHỈ LƯỚT QUA ĐỂ TẠO KHÁI NIỆM KHI CHẨN ĐOÁN TRÊN NGƯỜI BỆNH CỤ THỂ TRONG CÁC PHẦN SAU . CHÚNG TA HỌC Y ĐẠO NÊN PHẢI HIỂU VÀ NẮM BẮT THẬT TỐT CÁC KHÁI NIỆM - BỞI VÌ KHI CÓ KHÁI NIỆM TIÊN ĐỀ THÌ MỚI CÓ ĐỊNH HƯỚNG HOÁ GIẢI VẬT LÝ "
- Khi Địa cầu mới hình thành lớp phủ còn mỏng nên trái đất hấp thụ nhiều năng lượng tự nhiên và có nhiều biến dạng do lực hấp dẫn của các hành tinh khác . Khi năng lượng quá đầy sẽ xảy ra các vụ nổ và phun trào để giải phóng năng lượng . Trường lực hấp dẫn và Trọng lực của mặt trời và các hành tinh khác đã tạo cho trái đất một sự cân bằng về quán tính , tốc độ và sự dao động nên luôn nghiêng một góc nhỏ do quĩ đạo bay bị khống chế . Giống như một người chạy thật nhanh để thoát ra ngoài sự truy đuổi của đấng vô hình nhưng bị túm được hai chân nên đầu vươn về phía trước . Khoa học ngày nay tính toán khoảng 23 độ nhưng thực chất còn phụ thuộc vào lực hút của các hành tinh ...
[ nghiêng 23 độ ] Theo lực quán tính ly tâm mà phần giữa bên ngoài của lớp phủ trái đất ngày càng lớn ( bây giờ gọi là xích đạo ) Nên hai cực không phát triển . Khi mới hình thành , chịu lực tác động của các hành tinh lớn hơn giằng xé , co kéo nên có rất nhiều biến dạng . Không phải hình cầu như bây giờ . Giống như tranh cướp Bóng . Có khi bắt được một vật chất nhỏ hơn nhưng rồi lại bị hành tinh khác cướp mất . Có khi cặp đôi như song sinh v.v ... Bằng chứng là Mặt trăng đã bị trái đất không chế và Mặt trời chi phối nên không bao giờ thoát ra được bởi lực hấp dẫn đã thành hệ thống .
- Gia tốc lớn cộng với Trường lực và Trọng lực đã hình thành một trục cố định và thăng bằng như ngày nay chúng ta đang sống .... Do tự quay theo chiều từ phải sang trái nên phần hướng về phía mặt trời được chiếu sáng và gọi là NGÀY .
- Đại diện của ánh sáng là MẶT TRỜI
- Tên trong Tứ tượng là THÁI DƯƠNG
- Ánh sáng của mặt trời chiếu xuống trái đất tạo ra bức xạ nhiệt làm cho khí lạnh trên bề mặt quả đất hóa hơi bốc lên cao gặp hàn khí của vũ trụ nên ngưng tụ thành mây ( Vũ là chuyển động . Trụ là xưa cũng vậy nay cũng vậy không thay đổi) ,
- Phản chiếu ánh sáng mặt trời nên có nhiều màu sắc . Khí nhẹ bay lên trên . Khí nặng chìm xuống tạo thành mưa .
- Ban đầu trong mưa chưa có nước mà chỉ toàn các loại A xít . Khi thẩm thấu vào lòng đất mới hoạt hóa với các loại vật chất khác nhau mà tạo thành HỢP CHẤT BAN ĐẦU của nước ...
- Gặp nóng hóa hơi bốc lên , gặp lạnh ngưng tụ rơi xuống gọi là ĐỐI LƯU KHÍ .
- Thanh khí ở bên trên tầng Đối lưu gọi là BÌNH LƯU KHÍ .
Trong sáng . Tinh khiết . ánh sáng từ trái đất và màu đen từ vũ trụ sâu thẳm tương phản nên có màu xanh dương hoặc đậm .
- Bên trên tầng Bình lưu khí là một lớp cách âm gọi là
TRUNG LƯU KHÍ .
Khí trung gian . Trong suốt , vắng lặng , còn gọi là khoảng chân không . Nhờ nó mà mọi sự va đập . Tiếng gầm của cơn lốc vũ trụ không truyền tới Trái đất ...
- Không khí có trọng lượng nên bị lực hấp dẫn của trái đất chi phối bao bọc xung quanh gọi là QUYỂN KHÍ
- Phản chiếu ánh mặt trời tạo ra nhiệt lượng và năng lượng cục bộ đối với từng vùng . Từng nơi trên trái đất ...
- Trong không gian gọi là MÂY
- Trong Tứ tượng gọi là THIẾU DƯƠNG
Ánh sáng yếu .
- Phần bị che khuất tối đen gọi là
ĐÊM - Đại diện của bóng đêm là MẶT TRĂNG
- Tên trong tứ tượng là THÁI ÂM
- Thái âm là vùng khuất không được mặt trời chiếu sáng , không có vị trí cố định . Khi bị che khuất cái mà người ta nhìn thấy được rõ nhất chính là mặt trăng . Cho nên mặt trăng được chọn là ngôi của Thái âm . Kỳ thực Thái âm chính là Đêm tối . Khi trăng khuất cái thứ hai mà ta nhìn thấy chính là các vì sao “ định tinh ” . Nên các vì sao được gọi là THIẾU ÂM . Thái âm lạnh lẽo thì co lại , hàn khí ngưng tụ và rơi xuống
- Từ đây Hành tinh của chúng ta mới chính thức được gọi là Trái đất ... âm hán việt là Địa Cầu ..
TỪ KHÔNG THÀNH CÓ
ĐỊA CẦU ĐÃ SINH RA NHƯ THẾ .
- TỪ ĐÂY TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA ĐƯỢC GỌI LÀ
HẬU THIÊN " TẠO HÓA SINH RA SAU "
- TỨC LÀ VẬT CHẤT HỮU HÌNH ,
KHÁC VỚI TIÊN THIÊN LÀ VẬT CHẤT VÔ HÌNH " TẠO HÓA SINH RA TRƯỚC "
CŨNG TỪ ĐÂY HÌNH THÀNH LÝ NHỊ NGUYÊN
ĐÃ CÓ = ÂM =
TẤT NHIÊN PHẢI CÓ
= DƯƠNG =
KHI CÓ ĐỦ CẢ ÂM DƯƠNG THÌ NHẤT ĐỊNH PHẢI BIẾN
- MỘT BIẾN THIÊN
- HAI BIẾN ĐỊA
- BA BIẾN THỜI ...
- BIẾN THIÊN
Khí hậu thay đổi
“ Nhiệt độ + độ ẩm + áp suất không khí có thể tạo thành mưa , gió , bão... Cùng các yếu tố khác"
- BIẾN ĐỊA : Thảo mộc sinh sôi - Điểu - Thú phát triển
- BIẾN THỜI : Tạo ra qui luật thời gian - Bốn mùa luân chuyển
- Tạo ra phương hướng . Trên đầu - Dưới chân - Trước mặt - Sau lưng . Chính giữa và Bên phải - Bên trái ...
- Tạo ra trọng lượng và khối lượng . Lớn - Nhỏ - Nặng - Nhẹ
- Tạo ra màu sắc . Xanh - Đỏ - Trắng - Vàng - Đen...
Khi quan sát mặt trời mọc lên từ phía trước mặt thường có màu đỏ hồng nên GỌI LÀ HƯỚNG ĐÔNG ( hồng , bình minh )
- Mặt trời lặn xuống phía sau lưng có màu vàng hơi tím nên GỌI LÀ HƯỚNG TÂY ( tía , hoàng hôn )
- Bên tay phải thường có không khí rất nóng và ẩm nên gọi là HƯỚNG NỒM sau là HƯỚNG NAM
- Bên tay trái gió lạnh như cắt da cắt thịt nên GỌI LÀ HƯỚNG BẤC sau là HƯỚNG BẮC .
Như vậy từ ÂM DƯƠNG đến TỨ TƯỢNG đã SINH BỐN PHƯƠNG .
- Khi chuyển động ÂM DƯƠNG qua trạng thái biểu hiện của TỨ TƯỢNG theo chiều từ phải qua trái nên mới có HƯỚNG TÂY BẮC - TÂY - TÂY NAM - NAM - ĐÔNG NAM - ĐÔNG - ĐÔNG BẮC - BẮC .
ÂM DƯƠNG CỦA HẬU THIÊN CHÍNH LÀ
ÂM : Bóng tối - Lạnh giá - Co lại - Chìm xuống - Trọc .
DƯƠNG : Ánh sáng - Ấm áp - Nở ra - Nổi lên - Thanh
ÁNH SÁNG - BÓNG TỐI SINH RA BỐN KHÍ TỰ NHIÊN
Hàn - Nhiệt - Táo - Thấp
Nhiệt - Táo thuộc DƯƠNG - Ban ngày .
Nóng quá thì khô
Hàn - Thấp thuộc ÂM - Ban đêm .
Lạnh quá thì sinh ẩm ướt . Khi mặt trời chiếu xuống . Hơi lạnh , khí ẩm từ mặt đất , sông hồ bốc lên cao gặp lạnh ngưng tụ thành mây, trong mây là các tinh thể nước đóng băng .
- Đây chính là ÂM TRONG DƯƠNG gọi là Thiếu âm .
Buổi đêm về Hơi nóng của ánh sáng mặt trời còn tích tụ trong các sông hồ, đại dương , đất đá .
- Gọi là DƯƠNG TRONG ÂM . Tên Thiếu dương .
- Địa cầu quay xung quanh một trục vô hình , nghiêng một góc nhỏ nên ở cả hai bán cầu đều có khí hậu luân phiên giống nhau . Đây là sự công bằng của tạo hóa . Hai cực thiếu ánh sáng nên băng giá nhiều .
- Sự sống kém phát triển “ Cần hiểu thêm một điều rằng
TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG phản ánh VĂN MINH NÔNG NGHIỆP mà đại diện là các dân tộc việt “ Bách Việt ” cư trú trải dài theo các lưu vực sông vùng đông nam á .
Vì vậy mà phương hướng
Đông - Tây - Nam - Bắc
Xuân - Hạ - Thu - Đông
Thể hiện rất rõ khu vực sinh sống lâu dài của họ ...
- Khi thấy từ phía BẮC gió Bấc tràn về , cây cối trơ cành trụi lá... lạnh lẽo tối đen mọi vật co cụm lại nên gọi là MÙA ĐÔNG
- Khi thấy khí nóng từ phía NAM tỏa rộng , đẩy lui cái giá rét .
Cây cối sum suê ...
Mùa màng trĩu hạt thì gọi là MÙA HẠ “ sinh trưởng”
- Thí dụ này chứng minh cho thuyết
Âm - Dương - Tứ tượng - Bát quái là ở khu vực này .
Nếu xuống vùng xích đạo hoặc dưới xích đạo thì chắc chắn quan niệm sẽ khác ...
***Cho nên khi bàn về Thuyết Âm Dương Cần phải xem
Người đối diện
ÂM DƯƠNG SINH NGŨ HÀNH
Ngũ hành Hậu thiên
TRÁI ĐẤT TỰ QUAY NÊN SINH RA SÁNG VÀ TỐI
- Sáng là DƯƠNG
- Tối là ÂM- Dương sinh ra Nhiệt
- Âm sinh ra Hàn
- Nhiệt thì giãn nở
- khi giãn nở quá mức gọi là HƯ
- Giãn nở đến cùng cực trở nên Vô hình gọi là TIÊU
- Hàn thì co lại , khi co lại tương đối gọi là VINH
- Khi co lại đến cùng cực trở thành Hữu vi gọi là TRƯỞNG
Khi THÁI DƯƠNG và THÁI ÂM
KHÍ HÓA với nhau biến đổi thành NƯỚC
Dưới tác động của ánh sáng mặt trời ( Quang Năng ) đã tạo ra những đơn bào thực thể có tên là DIỆP LỤC TỬ và Tạo hóa đã gieo một mầm sống vĩ đại cho thế gian này . Diệp lục tử “ một chiếc lá màu xanh ”
- Khi quang hợp TẠO RA O2
- Khi dạ hợp TẠO RA CO2 (nói theo ngôn ngữ hiện tại ) và đây là những chất đã làm cho thực vật phát triển đa dạng tùy theo cách mà chúng hấp thu được . Như dây leo hay cây cối và là tiền đề của sự sống dài lâu .
Khi lực Hấp dẫn của Mặt trời và mặt trăng tăng cực đại .
Mặt nước dâng cao, các loại tảo trôi nổi khắp nơi .
Bám vào bờ đất, ghềnh đá . Khi lực hấp dẫn giảm mặt nước hạ thấp xuống , các vi tế bào còn đọng lại trên mặt đất đá đa phần bị triệt tiêu . Những thực thể đơn bào nào còn sống sót đã tự chuyển dạng để thích nghi tồn tại .
- Phần dài ra để tìm nước và khoáng chất làm thức ăn
Gọi là Căn " RỄ "
- Phần mở rộng để nhờ ánh sáng mặt trời chuyển hóa vi chất thành dưỡng chất (Quang hợp )
Gọi là Diệp ' Lá '
- Cứ thế hình dạng thay đổi theo nhu cầu để sinh tồn và được gọi là THỰC VẬT ( vật chỉ biết ăn - vô tri vô giác ) ...
Trong quá trình phát triển lớp thực vật ngày càng phong phú và dày đặc . Bị sét đánh hoặc sự va đập của các thiên thạch mà bốc cháy . Cháy dữ dội và cháy lan hàng ngàn km2 , tạo ra những đám tro bụi khổng lồ . Với sức nóng hàng ngàn độ đã chuyển hóa các muối axit thành nhiều loại hợp chất khác nhau bây giờ gọi là quặng . Khi nguội lạnh hơi nước thẩm thấu vào nên đông đặc lại . Núi lửa phun trào chôn vùi rất nhiều cánh rừng già . Chúng cháy ngầm trong lòng đất làm nóng chảy các loại vật chất khác nhau tạo ra rất nhiều loại khoáng sản , bây giờ gọi là kim loại .
Đại diện của kim loại là vàng
- Ngũ hành Hậu thiên là Năm hành có điều kiện
- Nói cách khác là Hữu hạn
Nó có thể sinh ra một hành khác hoặc bị một hành khác triệt tiêu .
- Nước thuộc hành Thủy sinh ra tảo lục là hành Mộc .
Tảo muốn phát triển thành cây phải dựa vào đất hành Thổ . Nếu đất nhiều quá thì không còn nước . Thổ khắc thủy .
Vậy muốn cho Thảo mộc phát triển hài hòa Cây lá xanh tươi thì
- THỦY - THỔ PHẢI TƯƠNG ĐỒNG
- THỦY - HỎA PHẢI TƯƠNG GIAO
- NƯỚC là nguồn sinh ra Sự sống sơ khai
- ĐẤT là điều kiện để Sự sống tồn tại
- LỬA là năng lượng để Sự sống phát triển
- GIÓ là sự khí hóa để Sự sống sinh sôi nảy nở
- ĐẠI DIỆN CỦA SỰ SỐNG LÀ THỰC VẬT
- BIỂU HIỆN CỦA SỰ SỐNG LÀ MÀU XANH
- PHÁT TRIỂN CỦA SỰ SỐNG LÀ ĐA DẠNG
XIN KẾT THÚC PHẦN KHÁI QUÁT Ở ĐÂY
- NHỮNG GÌ CÓ LIÊN QUAN CỦA NGŨ HÀNH HẬU THIÊN SÁCH SỬ ĐÃ GHI CHÉP ĐẦY ĐỦ NÊN CHÚNG TÔI KHÔNG ĐI VÀO CHI TIẾT . NHƯ NÓNG THUỘC DƯƠNG , THUỘC HỎA , MÀU ĐỎ , VỊ ĐẮNG , MÙI HẮC , SỐ 7 , HƯỚNG LÊN , SINH THỔ , KHẮC KIM v. v.
- LẠNH THUỘC ÂM , THUỘC THỦY , MÀU ĐEN , VỊ MẶN , ĐI XUỐNG , SINH MỘC , KHẮC HỎA
Tóm Tắt
TIÊN THIÊN
“Cái có trước do tự nhiên sinh ra”
Còn gọi là
TẠO HÓA - TỰ NHIÊN - THIÊN NHIÊN - ĐẤNG SÁNG TẠO
ÔNG TRỜI - THƯỢNG ĐẾ
Từ không thành có - Từ có sinh Âm Dương - Âm Dương sinh Tứ tượng . Mặt trời . Mây . Mặt trăng . Sao .
- Âm Dương sinh ngũ hành : Hàn khí . Nhiệt khí . Xoáy vũ trụ , lốc mặt trời . Bụi vũ trụ . Chất kết rắn do sự khí hóa của Hàn Nhiệt .
HẬU THIÊN
“ Cái có sau do Âm Dương - Ngũ hành - Tứ tượng Tiên Thiên tạo ra" - Đó là Hành tinh của chúng ta tên là
ĐỊA CẦU
Địa > đất - Cầu > tròn .. Quả đất tròn
- Địa cầu tự quay quanh nó ( do quán tính vận động ... )
- Phía được mặt trời chiếu sáng gọi là DƯƠNG
Dương thì nóng nhiệt , tỏa ra và bay lên
- Bên bị che khuất tối đen gọi là ÂM
Âm thì lạnh giá . Co lại . Đóng băng và Chìm xuống
Hàn + Nhiệt khí hóa với nhau
Sinh ra Thấp
Thấp sinh ra Thổ
Thổ sinh Kim
Kim sinh Thủy
Thủy sinh Mộc
Mộc sinh Hoả
- Từ Nước [ Hành Thủy ] mọc lên rong rêu , cây cỏ
- Cây cỏ tức [ Hành Mộc ] là nguồn của Lửa
- Lửa [ Hành Hỏa ] cháy sinh ra tro bụi
- Tro bụi là nơi tích tụ và sinh ra kim loại từ các chất acid vô cơ
- Kim loại khi bị đốt nóng thì chảy ra. ... { núi lửa - động đất }
Tinh chất thì chìm sâu vào lòng đất . Bã chất thì tản mát trên bề mặt quả đất .. Do lực hấp dẫn .
NGŨ HÀNH HẬU THIÊN
Là ngũ hành có điều kiện .
Bàn về ngũ hành thì trước phải nói Tương sinh .
Sau mới nói tương khắc .
Tương sinh là cái có trong cái có . " Có mới nói " . Khi đã có cái vật chất cụ thể rồi mới nói tới Tương khắc - Tương thừa - Tương vũ...
Học thuyết Âm Dương ...
Đã chỉ ra rằng qui luật của tạo hóa là Bất Biến
Xưa cũng vậy và nay cũng vậy nên gọi là
VŨ TRỤ " Quay chuyển - Không thay đổi"
Trái đất tự mình làm nên sáng tối
Mặt trời vẫn như nhiên hiển hiện
Tất cả mọi vật không hề mất đi mà chỉ Biến đổi từ dạng này sang dạng khác . “ Thảo mộc khi bị đốt cháy sẽ trở thành tro bụi” Tận cùng của một vật hữu hình sẽ trở nên vô hình “ nước hóa hơi ”
- Tận cùng của sự vô hình sẽ trở lại hữu hình “ hơi ngưng tụ thành mây, mưa xuống thành nước ” .
Bí mật của tạo hóa là sự TƯƠNG ĐỐI
Thái quá thì Bất cập
Trong Âm có Dương
Trong hình dáng một người Nữ lại thấy có tính cách của một người Nam .... Nói to .. Cười lớn
- TẤT CẢ MỌI VẬT SINH RA Ở TRÊN QUẢ ĐỊA CẦU NÀY DÙ LÀ HỮU VI TƯỚNG . HAY VÔ VI TƯỚNG ĐỀU KHÔNG CÓ TUYỆT ĐỐI
- VÌ SẼ TỰ BIẾN ĐỔI VÀ PHẢI BIẾN ĐỔI THEO QUI LUẬT ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH .
- Là người thực hành Y ĐẠO Cần phải phải Minh triết điều này . Để tránh mắc sai lầm đáng tiếc như “ Cải tử hoàn sinh - Luyện Đan để thoát vòng sinh tử ” .
Người ta chỉ có thể bằng cách này hay cách khác
làm giảm bớt những sai lệch do quá trình biến đổi gây ra :
“ Giảm bớt đau đớn . Cắt bỏ cái thừa . Chắp nối gãy đứt . Cân bằng Âm Dương . Hỗ trợ phục hồi . Kéo dài tuổi thọ ” .
Không thể thay đổi được số mệnh .
Có nghĩa là Không thể đảo lộn Âm Dương ...
- Đừng bao giờ nghĩ rằng có thể đi ngược lại qui luật của tạo hóa mà làm những điều vớ vẩn . Người đã già thì càng già thêm chứ nhất định không thể trẻ lại . Ngày mai sẽ yếu hơn ngày hôm nay . Cái cũ nát và lạc hậu nhất định sẽ được thay thế bằng cái mới và hoàn thiện - Đây chính là điều kỳ diệu của cuộc sống ...
- Cái có thể chính là nắm vững qui luật biến đổi để hình dung xem NÓ đang biến đổi ở giai đoạn nào . Trạng thái biến đổi ra sao ...
Thí dụ :
Người già thì sẽ yếu , nếu yếu thì sẽ ốm “ bệnh ” . Đã ốm yếu thì gầy là Thuận . Ngược lại già , yếu , bệnh tật mà lại béo mập là nghịch
- “ khi biến đổi từ hành mộc sang hành hỏa .
Từ tuổi trẻ đến tuổi già ... Có nghĩa là từ màu xanh sang màu đỏ thì khoảng trung chuyển của nó màu gì . Nếu từ Xanh đến xanh nhạt rồi trắng sáng chuyển sang vàng nhạt rồi cam đến Đỏ là bình thường hợp qui luật ....
Còn khác thì tại sao khác ... ?
Vậy khi ở giai đoạn màu cam thì loãng xương . Mất ngủ . Tiểu đêm ... Tim mạch . Huyết áp cao . Mệt hồi hộp ... Thì có phải là thuận hay không ... Có nên cho uống thuốc bổ huyết , bổ xương không ... ?
Ví dụ về Ngũ hành
Hành Thủy
- Hành ' sự vận động - Thủy ' nước .
Nước thì luôn chuyển động
- Nước thuộc Âm .
Vô vị [ sở dĩ có vị khác là do pha tạp , ở biển thì mặn , ở sông thì ngọt ... ] . Tính nhược [ mềm yếu ]
Phương : Bắc
Khí hậu : Đông
Sắc : Đen
Thời gian : Đêm
Giờ : Tý
Chuyển động : Chảy xuống , trầm xuống , giá lạnh. Trọc ( chất cặn bã )..
Vậy khi thấy một người to béo mà da bủng , thịt nhão thì có thể xếp vào hành thủy và nên quan tâm tới bệnh từ đầu gối xuống hai bàn chân . Thường thấy là thoái hóa khớp gối , tê phù hai bàn chân . Vì sao ? vì tính của nước là đi xuống , Trời lạnh đau nhiều . Đêm nặng hơn ngày càng đi xuống càng giá lạnh ....
Hành Hỏa
- Hành ' sự vận động' - Hỏa ' lửa , sức nóng , Màu đỏ ' .
- Hỏa luôn chuyển động
- Lửa thuộc Dương . Hướng lên . Tỏa ra . Tính mãnh liệt . Sắc đỏ Hướng nam . Trưởng hạ . Buổi trưa . Giờ ngọ ....
- Bốc hỏa thì đau đầu . Choáng váng . Hoa mắt . Chóng mặt ....
- chiều thuận là từ 0 đến có
- chiều nghịch từ có về không
- Quẻ khôn (000 nhị phân = 0 thập phân )
- Quẻ Càn (111 nhị phân = 7 thập phân )
Tương tự các quẻ khác
khi sắp sếp và vẽ chiều mũi tên, ta có 2 chiều từ 0 - 7 và từ 7 về 0, ứng với chiều sinh (thuận) và nghịch (chiều hồi quy)
Mong rằng với một số gợi ý trên sẽ giúp chúng ta gợi mở và đi sâu hơn vào các qui luật của Tạo hóa ...
- Nếu chỉ lướt qua , giống như mây bay cuối trời ... Rất mông lung , rất khó có thể hiểu cặn kẽ . Vì thế nên quý vị nào yêu thích Cổ văn có thể tra cứu thêm trong các văn bản khác ...
- Trong phần này chỉ đưa ra các gợi ý để làm cho những người học y học cổ truyền có sự gợi mở mà tự mình tìm hiểu , tự mình tham thấu ... Nguyên nhân bởi triết học xưa có rất nhiều truờng phái khác nhau . Không giống nhau về Luận # Nhưng lại giống nhau về Bản ...
ĐÔNG Y MINH PHÚ NIỀM TIN CỦA MỌI NHÀ
TÀI LIỆU THAM KHẢO·
Kinh dịch với đời sống
- Nhà xuất bản văn hoá dân tộc hà nội 1996
Kinh dịch trọn bộ Ngô Tất Tố chú giải
- Nhà xuất bản TP HCM 1997
http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/triet-hoc-dong-phuong/
triet-hoc-dong-phuong/dao-cua-lao-tu_1546.html
Wikipedia Triết học Đông á
春三月,此谓发陈,天地俱生,万物以荣,夜卧早起,广步于庭,被发缓形,以使志生,生而勿杀,予而勿夺,赏而勿罚,此春气之应,养生之道也。逆之则伤肝,夏为寒变,奉长者少。
夏三月,此谓蕃秀,天地气交,万物华实,夜卧早起,无厌于日,使志无怒,使华英成秀,使气得泄,若所爱在外,此夏气之应,养长之道也。逆之则伤心,秋为痎疟,奉收者少,冬至重病。
秋三月,此谓容平,天气以急,地气以明,早卧早起,与鸡俱兴,使志安宁,以缓秋刑,收敛神气,使秋气平,无外其志,使肺气清,此秋气之应,养收之道也。逆之则伤肺,冬为飧泄,奉藏者少。
冬三月,此谓闭藏,水冰地坼,无扰乎阳,早卧晚起,必待日光,使志若伏若匿,若有私意,若已有得,去寒就温,无泄皮肤,使气亟夺,此冬气之应,养藏之道也。逆之则伤肾,春为痿厥,奉生者少。
天气,清净光明者也,藏德不止,故不下也。天明则日月不明,邪害空窍,阳气者闭塞,地气者冒明,云雾不精,则上应白露不下。交通不表,万物命故不施,不施则名木多死。恶气不发,风雨不节,白露不下,则菀槁不荣。贼风数至,暴雨数起,天地四时不相保,与道相失,则未央绝灭。唯圣人从之,故身无奇病,万物不失,生气不竭。逆春气,则少阳不生,肝气内变。逆夏气,则太阳不长,心气内洞。逆秋气,则太阴不收,肺气焦满。逆冬气,则少阴不藏,肾气独。夫四时阴阳者,万物之根本也。所以圣人春夏养阳,秋冬养阴,以从其根,故与万物沉浮于生长之门。逆其根,则伐其本,坏其真矣。
故阴阳四时者,万物之终始也,死生之本也,逆之则灾害生,从之则苛疾不起,是谓得道。道者,圣人行之,愚者佩之。从阴阳则生。逆之则死,从之则治,逆之则乱。反顺为逆,是谓内格。
是故圣人不治已病,治未病,不治已乱,治未乱,此之谓也。夫病已成而后药之,乱已成而后治之,譬犹渴而穿井,而铸锥,不亦晚乎。
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét