Ngũ vị chẳng những có thể dùng vị giác mà phân biệt, lại còn do dùng thuốc lâu ngày tổng kết từ thực tiễn . Nói chung, tác dụng của ngũ vị là :
Như Nhân sâm . Hoàng kỳ , có thể bổ khí . Thục địa . Mạch đông có thể dưỡng âm . Cam thảo . Di đường . Đại táo có thể cam hoãn hoà trung .
Như Kha tử . ô mai có thể trị cửu lỵ , thoát giang . Ngũ vị tử . Kim anh tử , có thể chỉ hư hãn, trị di tinh…
Như Hoàng liên . Hoàng bá có thể táo thấp mà tả hỏa . Đại hoàng tả thực nhiệt mà thông đại tiện . Thương truật táo thấp kiện Tì .
Như Mẫu lệ nhuyễn kiên tán kết , có thể trị đàm hạch loa lịch . Mang tiêu thông tiện , nhuận táo , tả hạ .
Như Phục linh . Thông thảo . Hoạt thạch , có thể thẩm thấp lợi tiểu tiện .
Vị vậy !
Cái gọi là Ngũ vị trong thực tế là có 6 vị .
Sáu vị này , nếu quy nạp vào Âm - Dương thì
Cam - Khổ - Hàm thuộc Âm
Thuốc ôn Tính có
Vị cam thì có
Tính vị dược vật khác nhau cũng làm cho hiệu dụng của dược vật phức tạp.
Ngoài điều đó ra
Như Đương quy cam tân . Thược dược toan khổ . Vì vậy , phạm vi tác dụng của nó cũng mở rộng tương ứng. Điều này thể hiện rõ mỗi vị thuốc có nhiều loại tác dụng , cùng là giữa các vị thuốc thấy rõ trong cái chung có cái riêng và trong cái riêng có cái chung , nên cần phải nắm cho vững tính cộng đồng và tính cá biệt
là tác dụng nói chung và tác dụng đặc thù , ứng dụng cho linh hoạt thì mới đạt được tác dụng trị liệu .
Thăng giáng phù trầm là chỉ được vật sau khi vào cơ thể, sinh ra các tác dụng Thượng thăng - Hạ giáng , phát tán , tiết lợi khác nhau . Trị bệnh ở lâm sàng chính là lợi dụng tác dụng này của thuốc để điều hòa bệnh thế thiên về hạ hãm hay thượng nghịch và trừ khử tà ở biểu hoặc tả ở Lý . Phàm các thuốc thăng phù đều chủ thượng hành mà hướng ra ngoài, có đầy đủ các tác dụng thăng dương, phát biểu , khư phong , tán hàn , ôn lý , thuộc Dương . Trong lâm sàng, thường dùng để trị bệnh Dương khí hạ hãm cùng là bệnh ở trên, ở biểu. Thuốc trầm giáng đều chủ hạ hành mà hướng vào trong, có đầy đủ các tác dụng tiềm dương, giáng nghịch, thu liễm, thanh nhiệt, lợi thủy, thông tiện, thuộc Âm. Trong lâm sàng, thường dùng để trị tà khí thượng nghịch cùng là bệnh ở dưới, ở lý.
Thăng, giáng, phù, trầm chủ yếu là dựa vào khí vị hậu bạc và chất thuốc khinh trọng. Hậu là để chỉ khí vị nồng hậu, hùng liệt, bạc là để chỉ khí vị khinh thanh đạm bạc
Nói chung, thuốc thăng phù phần nhiều là tân, cam, ôn nhiệt. Thuốc trầm giáng phần nhiều là khổ, toan, hàm hàn lương. Chất nhẹ thì thăng , chất nặng thì giáng. Khí Là dương mà thượng thăng, do hậu bạc không giống nhau mà có sự khác nhau về phát tán và ôn lý . Vị là âm mà hạ hành , cũng do hậu bạc khác nhau cho nên có sự khác nhau về khả năng thông hoặc tiết.
1 - Khí bạc thì phát tán
Phát tán là phát hãn thi dương thuốc phần nhiều là tân ôn, cam bình, vi khổ bình chủ thăng. Như Ma hoàng , Kinh giới , Sài hồ , Thăng Cát căn...
2 - Khí hậu thì ôn lý
Ôn lý tức là tán hàn ôn lý th phần nhiều là tân cam ôn nhiệt, chủ phủ. Như Ph Can khương, Nhục quế, Ngô thù du...
3 - Vị hậu thì tiết
Tiết tức là thanh hỏa tiết hạ, nhiều là thuốc khổ hàn, hàm hàn, chủ trầm. Nhu hoàng, Mang tiêu, Hoàng liên, Hoàng bá...
4 - Vị bạc thì thông
Thông tức là thông giáng hạ . Phần nhiều là thuốc cam đạm hàn, cam toan binh hàn, chủ giáng. Như Phục linh, Trạch tả, Thông thắc tiểu đậu, Xuyên sơn giáp...
Thuốc bằng hoa, lá và chất nhẹ như Cúc hoa . Hà diệp và Mã bột phần nhiều có thể thăng phù . Thuốc bằng hạt quả và chất nặng như Tô tử . Chỉ thực và Giả thạch nhiều có thể trầm giáng , đó là quy luật nói chung cũng có ngoại lệ, chiếm số rất ít, như Toàn phúc hoa nhưng tính lại hạ giáng, Ngưu bàng tử là hạ lại có công năng sơ tán phong nhiệt, lợi yết (hầu họng ) tán kết .
Tính năng thăng giáng phù trầm của được vật, mỗi vị còn tuỳ theo cách bào chế hoặc sự phối ngũ mà có sự biến hóa . Có một số vị thuốc, trải qua "tửu sao tắc thăng, khương trấp sao tắc tán, thố sao tắc thu liễm, diễm thủy sao tắc hạ hành". Như thuốc thăng phù đưa vào bài gồm các vị trầm giáng, có thể hạ giáng theo, thuốc trầm giáng đưa vào bài gồm các vị thăng phù, có thể thượng thăng theo. Như vậy, có nghĩa là trong các điều kiện nhất định thì được tính thăng, giáng, phù, trầm có thể hỗ tương chuyển hóa, và cũng không thể nhất thành bất biến. Cho nên khi dùng thuốc trong lâm sàng, trừ việc phải nắm vững nguyên tắc nói chung còn phải biết cách biến hóa ở trong thuốc thì mới đạt tới được mục đích vận dụng thuốc chính xác được.
Trải qua quá trình lâu dài về thực tiễn lâm sàng, người xưa đã nhận biết được một số được vật đối với bệnh tật của một số tạng phủ, kinh lạc có đầy đủ tác dụng trị liệu đặc thù. Ví dụ Sinh thạch cao thanh nhiệt, Thạch họ dưỡng âm, cả hai đều có tác dụng chủ yếu vào Vị cho nê đều quy kinh Vị.
Cần coi trọng sự quy kinh của dược liệu nhưng cũng không nên cố chấp như y gia cổ đại nói : "Bất tư kinh lạc nhi dụng dược , kỳ thất dã phiếm , tất vô tìệp hiệu, chấp kinh lạc nhi dụng dược, kỳ thất dã nệ (không biết kinh lạc mà dùng thuốc thì sự sai lầm sẽ ở chỗ phù phiếm, ắt không khỏi nhanh, cố chấp kinh lạc mà dùng thuốc thì sự sai lầm sẽ ở chỗ câu nệ ). Điều đó chứng tỏ rằng trong khi dùng thuốc ở lâm sàng vừa cần phải có tính nguyên tắc lại vừa phải có tính linh hoạt.
Ngoài ra, do bệnh biến của các Tạng phủ kinh lạc có thể tương hỗ ảnh hưởng. Vì vậy, khi dùng thuốc ở lâm sàng , có khi không đơn thuần chỉ dùng vị thuốc quy về riêng một kinh nào đó . Như bệnh Phế mà lại thấy Tì hư , mỗi khi dùng thuốc bổ Tì , nếu Tì kiện vận có thể đẩy mạnh bệnh Phế mau khỏi . Cho nên, cần biết rõ sự quy kinh của mỗi vị thuốc lại phải nắm vững quan hệ tương hỗ giữa các Tạng Phủ kinh lạc với nhau để chỉ đạo việc dùng thuốc trong lâm sàng.
IV . BÀO CHẾ TRUNG DƯỢC
Bào chế tức là gia công. Phần lớn các vị thuốc đều là thuốc sống. Có vị thuốc có tính độc hoặc tính chất kịch liệt, không thể uống trực tiếp. Có vị thuốc dễ biến chất, không cất giữ lâu được, có vị thuốc cần trừ bỏ tạp chất hoặc bộ phận không thích dụng, có loại do khí vị không tốt cho việc phục dụng. Và lại cùng 1 vị thuốc, do sống chín không giống nhau thì tác dụng có khác nhau. Vì vậy, cần phải thông qua bào chế, tiến hành xử lý thích đáng mới có thể cung cấp cho ứng dụng lâm sàng.
Mục đích chủ yếu của bào chế là thông qua phương pháp gia công để tiêu trừ hoặc giảm thấp độc tính và tính mãnh liệt của dược vật, tăng thêm hiệu lực của vị thuốc hoặc cải biến tính năng vốn có của dược vật , thanh trừ tạp chất cùng là tiện cho việc chế tễ, việc phục dụng và tàng trữ.
Hoả chế - Thủy chế và Thủy hỏa hợp chế.
Là đem thuốc đặt trực tiếp hoặc gián tiếp vào lửa , nhằm làm cho nó khô , giòn hoặc vàng sém hoặc hóa than,
Nung - Đốt - Lùi - Sao - Chích
Là đem dược vật đặt trực tiếp vào lửa cho đỏ lên hoặc đặt dược vật lên trên nổi chịu lửa, chất lửa nung chung quanh. Phép này thường dùng cho khoáng vật hoặc mai, vỏ các động vật như Từ thạch . Mẫu lệ v.v... Sau khi nung, tính năng của dược vật thường thay đổi , như Long cốt , Mẫu lệ sau khi nung có thể chuyển tác dụng tiềm tiến thành tác dụng thu liễm.
Là cho thuốc vào nồi kim loại, dùng nhiệt cao sa đốt, làm cho dược vật bốn bề vàng sém, như bào khương chẳng hạn. Phép này có thể làm tăng thêm tác dụng ô lý của được vật, cũng có thể làm giảm bớt độc tính của dược vật.
Bọc thuốc vào giấy ướt hoặc tẩm hồ, vùi vào tro nóng vừa độ, rồi gia nhiệt thêm, cho tới lúc giấy ướt hoặc lớp hồ bọc cháy đen làm độ, như gừng tươi lùi, nhục đã khấu lùi... Phép này có thể làm giảm bớt tính kích thích của dược vật. tạp chất cùng là tiện cho việc chế tễ, việc phục dụng và tàng trữ.
PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ CHIA LÀM BA LOẠIĐem được vật cho vào chảo sao, nhưng do mục đích khác nhau, cho nên mức độ gia nhiệt cũng có khác nhau, nói chung có thể giảm nhẹ tính đắng lạnh của được vật, như các loại sao chi tử sao chỉ xác. Nếu muốn làm mạnh thêm tác dụng thu sáp chỉ huyết của được vật thì sao cháy thành than như các loại kinh giới thán, địa du Thán. Còn đăng tâm thán, huyết du thán thì cần dùng mật mà nung thành than.
CHÍCH !
Chích và sao không khác nhau mấy, phương pháp của nó là dùng một lượng nước mật nhất định, nhào với thuốc, rồi đun nhỏ lửa sao cho vàng, gọi là vi mật chích. Như cam thảo sau khi mật chích, có thể làm mạnh thêm ác dụng ôn trung bổ ích , khoản đông hoa sau khi mật chích, có thể làm mạnh thêm tác dụng nhuận phế chỉ khái , hoàng kỳ sau khi mật chích, có thể làm mạnh thêm tác dụng bổ khí mà giảm bớt tác dụng hành khí tẩu biểu .
Là để làm cho dược vật sạch sẽ mềm , tiện cho việc gia công thái phiến hoặc giúp cho việc n giảm bớt độc tính và tính mãnh liệt của dược vật. Nói ang gồm có phiếu, tẩy, thủy phi:
PHIẾU
là đem ngâm thuốc vào nước một thời gian, tác dụng chẳng những làm cho thuốc sạch sẽ, mà còn giảm mùi vị hoặc sự tanh hôi của thuốc như nhục thung dung chẳng hạn.
Đem dược vật cứng rắn tán thành bột, rồi cho thêm nước vào bát đựng, nghiền đi, nghiền lại, cho tới lúc bột thuốc nửa chìm nửa nổi mới dừng tay, sau đó gạn lấy bột phơi khô để dùng . Phép này có thể làm cho thuốc được nghiền thành bột cực mịn, uống trong sẽ dễ hấp thu . Dùng ngoài thì giảm kích thích, như hoạt thạch, chu sa chẳng hạn
Chưng HOẢ HỢP CHẾ
Là đem dược vật đồ lên để tăng mạnh tác dụng bổ ich, như thục địa, thủ ô. Có một số loại dược vật sau khi chưng có thể hòa hoãn dược tính như Thục Đại hoàng
Phối ngủ, có ý nghĩa trọng yếu trong việc dùng thuốc trên lâm sàng, do bệnh tình phức tạp và thay đổi nhiều, có nhiều bệnh tương kiêm, hàn nhiệt lẫn lộn hoặc hư thực cùng thấy, cho nên chỉ dùng thuốc đơn vị thì không đú kiên cố toàn diện mà cần đem nhiều vị phối hợp thích đáng với nhau, lợi dụng sự hợp đồng tương hỗ giữa các vị thuốc hoặc chống đối nhau, lấy sở trường bổ sở đoản, chiếu cố toàn diện cho thích ứng với nhu cầu trị bệnh và phát huy được đầy đủ tác dụng của thuốc.
Phép cấm kỵ trong dùng thuốc. Chủ yếu, bao gồm tương phản, tương uý và nhâm thần cấm kỵ (cấm dùng cho ngu có mang). Phần có ý tứ là chống lại, Ủy có ý tứ là sợ
Bối, Lâu, Bán, Liễm, Cập: công Ô
(Ô đầu phản Bối mẫu, Qua lâu, Bán lục, Bạch Bạch cập, Cam thảo phản Cam toại, Đại kích, Hà Nguyên hoa. Lê lô phản Nhân sâm, Sa sâm, Dar Nguyên sâm, Tế tân, Thược dược).
Phác tiêu nhất kiến tiện tương tranh
Thủy ngân mạc dữ Phê sương kiến
Lang độc tối phạ Mật đà tăng
Ba đậu tính liệt tối vị thượng
Thiên dữ Khiên ngưu bất thuận tình
Đinh hương mạc dữ Uất kim kiến
Nha tiêu nan hợp Kinh Tam lăng
Xuyên ô, Thảo ô bất thuận Tê
Nhân sâm tối phạ Ngũ linh chi
Quan quế thiện năng điều lãnh khí
Nhược phùng Thạch chi tiện tương khi
Đại phàm tụ hợp khán thuận nghịch
Bào hồng chích tẩm mạc tương y.
Trên đây là cấm kỵ trong khi dùng thuốc, dùng để tham khảo khi dùng thuốc, nhưng không tuyệt đối như trên. Trong các phốn phương của người xưa cũng có một số bài phản úy đồng dụng. Như dùng Cam thảo tâm Cam toại, tán mạt uống trong chưa bụng nước, có thể nâng cao hiệu quả chữa bệnh của Cam toại. Đảng sâm đồng dụng với Ngũ kinh chỉ có thể bổ Tì Vị, chấm dứt đau nhức.
Trong thời gian có thai, nguyên nhân của việc cần thiết phải chú ý là bởi có 1 số vị thuốc có tác dụng hoạt thai, my thai, dẫn đến hậu quả sảy thai, cho nên khi chữa phải chú ý đến các vị thuốc cấm dùng khi có thai. Do tính nguy hại đối với người có thai của các vị thuốc không giống nhau, nên chia ra thuốc cấm dùng và thuốc dùng thận trọng (cấm dụng và thận dụng).
Chữa bệnh cho phụ nữ có mang, cần thấy chủ ch của bệnh, vừa cần mau chóng tiêu trừ bệnh tà lại vừa chiếu cố bảo vệ thai, lại có thể có lợi cho sức khoẻ cuả mẹ lẫn con.
Đối với thuốc thận dụng, nếu quả bệnh tình cần thì cần căn cứ nguyên tắc "hữu cố vô vẫn, diệc vô và (có lý lẽ không chết thì cũng không chết được) mà chước sử dụng, nói chung là không để chết thai vậ
Lượng thuốc dùng nhiều hay ít, phải căn cứ vào tính chất của thuốc, tễ hình không giống nhau, bệnh tình nặng hay nhẹ, quan hệ của sự phối ngũ, cũng là tình chất bệnh nhân khoẻ yếu mà quyết định.
Thuốc chia ra loại có độc hoặc không độc hoặc mãnh iệt và hòa hoãn không giống nhau. Phàm thuốc có độc, mãnh liệt, lượng dùng nên ít và bắt đầu dùng tễ lượng nhỏ, rồi tăng dần lên, để tránh trúng độc hoặc hao thương chính khí. Lại như thuốc nhẹ, hoa, lá, lượng dùng không nên quá lớn. Loại thuốc chất nặng như kim thạch, vỏ động vật lượng dùng nên nặng. Thuốc phương hương tẩu tán ên dùng lượng nhẹ, thuốc vị hậu, béo lượng dùng nên nặng. Ngoài ra, tễ hình khác nhau, lượng dùng cũng khá hau, nói chung, lượng dùng cho thang tễ nên nặng hơn lượng dùng cho hoàn tễ, thuốc đơn vị lượng dùng nên nặng hơn phức phương.
Bệnh nhẹ, bệnh mạn tính, lượng thuốc bất tất phải quá nặng , bệnh nặng, bệnh cấp tính, lượng thuốc phải tăng thêm cho thích đáng. Bởi vì bệnh nhẹ thuốc nặng, sức thuốc thái quá sẽ phản thương chính khí. Bệnh nặng thuốc nhẹ, sức thuốc không đủ chất và lượng, dần dần sai lạc cả bệnh cơ. Lại có 1 số vị thuốc, tác dụng của lượng và lượng nhẹ có khác nhau. Như Hồng hoa dùng ít thì có thể dưỡng huyết, ngược lại dùng nhiều thì phá huyết, Hoàng liên dùng ít thì kiện Vị, dùng nhiều lại hóa táo bại
Tuổi tác nhiều hay ít, thể chất mạnh hay yếu, giới tính ác nhau, việc quyết định lượng thuốc dùng có khác au. Như trẻ em và người cao tuổi, lượng thuốc dùng nên hơn người tráng niên, bệnh nhân khoẻ mạnh, có thể ng thuốc lượng nặng hơn người yếu ớt, phụ nữ, nói ang, lượng thuốc dùng nên ít hơn nam giới. Nhưng chủ - vẫn nên lấy các mặt toàn diện của bệnh tình mà tính n suy nghĩ.
Nói chung, trẻ em từ 6 đến 13 tuổi, lượng thuốc dùng g một nửa người lớn, từ 3 đến 6 tuổi, bằng 1 phần 3. dưới 3 tuổi bằng 1 phần tư. Hài nhi còn đang bú lượng càng phải ít (thuốc độc và mãnh liệt càng nên c giảm).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét